Lê Dân

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2010

Chuyện kể từ Địa ngục

thiên thần và địa ngục
    -Này này, lũ linh hồn các ngươi mau mau khai báo.
    Tiếng vị Phán quan hét lên vang vọng trong cõi âm ty địa phủ, vừa rùng rợn vừa u ám. Đám chúng linh hồn tả tơi vì lạnh, vì đói đang khom mình co ro, răng va vào nhau lập cập trông thật thảm hại.
    - Dạ bẩm Phán quan, chúng con tên là Đau, Khổ, Uất , Ức… là ngư phủ nước Đại Việt ạ.
    - Ta đã tra sổ sách, thấy các ngươi chưa tới số sao lại dẫn dắt nhau xuống đây?
    - Dạ bẩm, chuyện là thế này: từ xưa tổ tiên chúng con làm nghề chài lưới, nay chúng con  tiếp tục làm nghề chài lưới. Cực thì đã đành, nhưng là cái nghề ông cha truyền lại bỏ đi cũng không đặng. Hàng ngày chúng con dong buồm ra khơi những mong kiếm con tôm con cá, trước để nuôi sống bản thân, sau nữa là góp phần bảo vệ lãnh thổ mà biết bao thế hệ con dân Đại Việt đã dày công gây dựng, vun đắp. Ấy thế mà chẳng hiểu tại sao, khi chúng con đang đánh bắt trên biển đảo của mình thì bị “tàu lạ” lao tới tấn công và đâm thẳng vào chúng con, tàu thuyền của chúng con vừa nhỏ vừa yếu nên tất cả đều vỡ tan tành, chúng con cùng đường nên phải dắt díu nhau xuống đây đấy ạ.
     - Tàu lạ là tàu của nước nào, các ngươi có biết?
    - Dạ bẩm, nói “tàu lạ” là nói theo chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ cho đẹp lòng "ông anh 16 chữ vàng- bốn tốt". Chứ chúng con thừa biết đó là bọn tàu khựa Trung cộng, con cáo già hàng xóm của chúng con.
     - Thế còn các ngươi? – Vị Phán quan chỉ tay vào một chúng linh hồn mới vừa kéo xuống cửa Âm ty, chân ướt chân ráo, còn run bần bật.
    - Dạ bẩm, chúng con tên là Lê, Oan, Cùng, Cực…, là ngư phủ nước Đại Việt ạ.
    - Lại là ngư phủ nước Đại Việt.- Miệng Phán quan lẩm bẩm như lấy làm bực bội.
    - Các ngươi cũng chưa tới số sao lại kéo nhau xuống đây, đây là Âm ty địa phủ các ngươi có biết không?
    - Dạ bẩm, chúng con biết chứ ạ. Nhưng thử hỏi ngài chúng con còn có nơi nào để đi? Chúng con đang đánh bắt tôm cá trên biển đảo của mình, bỗng đâu một lũ đầu trâu mặt ngựa ở đâu tràn tới, cờ đỏ năm sao, chúng sấn xổ chĩa thẳng súng vào chúng con rồi quát ngộ ngộ nị nị loạn xì ngầu, chúng bắt chúng con lôi đi, chúng đòi tiền chuộc, chúng con không có, chúng tịch thu hết lương thảo, dầu, nhớt, rồi đẩy chúng con trở lại biển cả. Lương thực không có, nhiên liệu cũng không, mấy ngày lênh đênh vô vọng giữa mênh mông sóng gió, cuối cùng một trận tố lốc đã đưa thẳng chúng con về đây.
    - Oan nghiệt, thật là oan nghiệt. – Sau một lúc nghiêm sắc mặt trầm tư, vị quan cai quản toàn cõi âm ty phán tiếp:
     - Ta thấy các ngươi chết oan uổng, ta không đủ phép lực để làm cho các ngươi sống lại được, nhưng ta có một ân huệ giành cho các ngươi. Các ngươi có quyền lựa chọn hoặc tiếp tục ở đây để chờ được đầu thai hoặc lên thiên đường tiêu dao tiên cảnh.
     Nghe thế, lũ chúng linh hồn ngư phủ Đại Việt nháo nhác, sau hồi so đo lưỡng lự, một linh hồn lớn tuổi được đề cử ra bẩm báo:
     - Dạ bẩm, thiên đường là thiên đường gì ạ? Nếu là thiên đường XÃ HỘI CHỦ NGHĨA thì chúng con thà cứ ở lại đây.
    - Làm quái gì có cái thiên đường nào như các ngươi vừa nói. Thiên đường chỉ có một thôi, là nơi ở của Ngọc hoàng cùng các vị thần tiên.
      - Dạ bẩm, nơi chúng con ở người ta bảo là thiên đường XHCN đó thôi.
      - Bố láo. Haaaaaaa….haaaaaaa…. Ta biết rồi, các ngươi bị lừa rồi.
      - Lừa là sao ạ?
      - Đúng là đồ con lừa, thiên đường XHCN mà các ngươi nói, nó chỉ là đồ QUẢNG CÁO.
**********************************************************************
        Cách mà đảng cộng sản mang CNXH đến với nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân thế giới nói chung cũng giống như việc người ta đeo mắt kính màu xanh cho con lừa để khi nó ăn rơm rạ mà cứ tưởng đó là cỏ non. Nhưng ăn mãi thì nó cũng biết đâu là rơm rạ và đâu là cỏ non thật sự. Dối trá thì bao giờ cũng đi vào ngõ cụt.

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2010

NGÃ RẼ



         Tôi đang loay hoay tìm cho mình một con đường. Có nên tiếp tục sống như một kẻ hèn nữa hay không? Tại sao tôi phải làm ngơ và im lặng trước những sai trái, bất công, tàn bạo? Tại sao ư? Vì những sai trái,bất công, tàn bạo ấy xuất phát từ những kẻ làm ra và thừa hành quyền lực của đất nước. Tôi còn có gia đình, gia đình chính là điểm yếu nhất của tôi, đó chính là lý do khiến tôi sống hèn không dám cất lên tiếng nói của sự thật. 


        Tôi yêu Tổ quốc, tôi yêu Đất nước  và tôi yêu Dân tộc tôi hơn bất cứ thứ gì khác. Nhưng điều đó không bắt buộc tôi phải nhất nhất nghe theo Đảng, tin theo Đảng. Nói như thế có kẻ sẽ bảo tôi là lệch lạc về tư tưởng, mờ nhạt về ý chí. Tư tưởng? Đúng tôi đang cố tình làm lệch lạc cái tư tưởng cổ điển, pha tạp và lỗi thời đã nhồi sọ không những riêng tôi, bạn bè tôi mà cả lớp lớp người trên đất nước Việt Nam. Ý chí? Làm gì có ý chí khi con người ta được sinh ra và lớn lên trong một môi trường xã hội mà như ông nhạc sỹ Phạm Duy từng nói "đói niềm tin và bội thực tự hào".

       Tôi, một anh chàng sinh viên ngô nghê vừa mới ra trường, đang vật vã trong cơn đói lả để kiếm việc làm. Có lẽ không có gì khiến tôi ân hận hơn việc đã thi vào trường Luật, bởi học luật nên tôi mới thấy rõ hơn những bất công do chính thể nhà nước này mang lại cho những người dân thấp cổ bé họng. Họ làm ra luật pháp nhưng rồi chính họ lại dẫm đạp lên trên luật pháp. Phương thức làm việc của chính quyền là nói một đằng làm một nẻo và phương pháp làm việc là hứa và "ngâm". Mỗi khi chính quyền dọa nạt mà dân tỏ ra cứng đầu thì dùng chiêu thức đàn áp hay mỹ miều hóa là "cưỡng chế nhà nước" còn chính xác hóa là "cướp và tra tấn có công văn". Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Xây dựng nhà nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh..., đây là những mỹ từ mà tôi (ta) thường xuyên được nghe thấy. Nhưng những thứ đó có thực sự tồn tại không? Câu trả lời là có, dưới chính thể nhà nước hiện tại ở Việt Nam, những khái niệm vừa nêu đối với phần đông dân số thì nó quả là thứ khái niệm xa xỉ, nếu không muốn nói là "only in dream".
      Trước đây, đúng, nhưng chỉ là trước đây thôi, tôi thực sự rất yêu Đảng. Tôi yêu Tổ quốc bao nhiêu thì tôi cũng yêu Đảng bấy nhiêu. Bởi không riêng gì với suy nghĩ của tôi mà còn có rât nhiều người đều nghĩ như tôi rằng yêu Đảng là yêu Tổ quốc và ai đó yêu Tổ quốc thì phải yêu Đảng. (???)  Còn bây giờ tôi đang băn khoăn đứng giữa ngã ba đường_ngã ba đường của tư tưởng. Tôi từng yêu Đảng bao nhiêu, tự hào bao nhiêu thì giờ đây niềm tin với Đảng trong tôi đã vơi cạn đi bấy nhiêu. Gia đình tôi, một gia đình thuần nông bình thường như bao gia đình khác trên đất nước Việt Nam. Ông tôi, Cha tôi, Chú tôi  họ đều từng là những người lính. Từng cầm súng để chiến đấu chống lại kẻ thù theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, của Đảng. Vì Ông, Cha, Chú tôi đã đổ xương máu trên chiến trường nên gia đình tôi cũng được Nhà nước công nhận là gia đình vẻ vang. Hoàn cảnh gia đình là thế nhưng tại sao tôi lại có những suy nghĩ "lệch lạc" như thế này? Rõ ràng hoàn toàn ở đây không phải vì lý do thù hằn có sẵn hay bất mãn chế độ. Chỉ có một điều duy nhất khiến tôi không còn tin vào Đảng nữa đó là Đảng đang phản bội lại chính niềm tin của nhân dân, trong đó có tôi. Đảng có bao giờ sai không? Chắc chắn có! Sai có nhận không??? Nhận có sửa không??? Mù mờ!!! Tức là tung hỏa mù hoặc là đổ lỗi trách nhiễm cho cá nhân còn Đảng thì chẳng bao giờ sai cả. Trong lịch sử của nhân loại, từ cổ chí kim không thiếu những chính thể nhà nước do sự đấu tranh của nhân dân mới thành lập được nhưng sau đó  quay lại phản bội nhân dân. Đảng, đúng, trước đây chính là ngọn cờ hiệu triệu và lãnh đạo toàn dân chống lại và chiến thắng những kẻ xâm lược hùng mạnh nhất trên thế giới. Lúc đó toàn dân một lòng nghe theo Đảng là vì sao? Bởi khi Tổ quốc lâm nguy, Đảng đứng ra lãnh đạo đất nước vì một mục đích chung cho cả dân tộc, đại diện quyền lợi của cả dân tộc.  Còn bây giờ liệu Đảng có còn vì mục đích chung của cả dân tộc nữa hay không? Vì quyền lợi chung của cả dân tộc nữa hay không? Tôi đã có câu trả lời cho riêng mình. Tôi không việc gì phải trung thành với kẻ đã phản bội lại niềm tin của tôi.


         "QUỐC GIA HƯNG VONG, THẤT PHU HỮU TRÁCH" _  đây là những lời nói tầm thường nhất từ những kẻ tâm thường nhất như tôi. Nhưng nó thật sự xuất phát tự đáy lòng. Nó khẳng định rằng tôi vốn không phải kẻ hèn nhát.
Tôi yêu Đất nước tôi, tôi yêu Đồng bào tôi và tôi sẵn sàng hy sinh cho quyền lợi của Đồng bào tôi, Đất nước tôi.
NOT: Buồn thay, đất thiêng của Tổ quốc đang bị ngoại bang xâu xé, giày vò. Người Việt trong nước thì nghèo đói, đi làm ăn, đánh cá trên biển, đảo của  mình mà cũng bị bắt bớ, đánh đập hết sức tàn nhẫn. Người Việt ở nước ngoài thì bị người ta coi khinh, rẻ mạt. Ôi...buồn thay, buồn lắm thay...

         CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ ƯỚC MƠ CỦA CẢ XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI VĂN MINH BỞI VÌ ĐÓ LÀ MỘT XÃ HỘI TỐT ĐẸP NHẤT. NHƯNG CHỈ XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÀNH CÔNG KHI ĐẤT NƯỚC CÓ MỘT CƠ SỞ VẬT CHẤT HẠ TẦNG HOÀN THIỆN NHẤT,  KHKT PHÁT TRIỂN CAO NHẤT, VÀ ĐẶC BIỆT LÀ NHẬN THỨC  CỦA CON NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. HOÀN CẢNH VIỆT NAM NHƯ VẬY, XÃ HỘI VIỆT NAM NHƯ VẬY, CON NGƯỜI VIỆT NAM NHƯ VẬY, RÕ RÀNG ÔM CÁI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀO LÀ KHÔNG TƯỞNG. RỒI CHÚNG TA SẼ ĐI VỀ ĐÂU???
        HÃY ĐỂ TÔI ĐƯỢC NHẬN PHÁT ĐẠN ĐẦU TIÊN CỦA KẺ THÙ NẾU PHẢI ĐẤU TRANH CHO TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM!

Bài học Cha dạy làm người




Cha sẽ dạy cho con học cách làm người
Mà cha của con đã một thời đau đáu.
Lòng tin là bài học đầu cha sẽ dạy
Đó là tư tưởng của ngọn nguồn.
Tin vào người, vào đời và cuộc sống
Vào tương lai tươi sáng của ngày mai.
Bài học thứ hai
Cha sẽ dạy con thế nào là sự thật.
Sự thật vẫn cứ là sự thật!
Dù cho ai ngon ngọt dỗ dành,
Thì dối trá cũng không trở thành sự thật.
Dù cho ai lấy uy quyền đe dọa
Trước súng gươm bạo lực hung tàn
Thì dối trá cũng không bao giờ trở thành sự thật.
Có thể lấy máu rửa sạch bụi mờ
Cho sự thật như ánh dương tỏa sáng.
Con sẽ hỏi cha ơi
Sự thật là chi mà phải hy sinh nhiều đến thế?
Sự thật là những gì người ta che đậy
Luôn là thế đằng sau vẻ mỹ miều.
Con cứ lớn rồi con sẽ hiểu
Sự thật là câu trả lời cho mọi câu hỏi của con.
Cha đã qua tuổi thơ thiếu thốn
Đói ăn, đói mặc, đói lòng
Đói niềm tin vì chẳng ai cho cha hay sự thật.
Vì sao nước mất,
Vì sao dân bị đọa đày,
Vì sao dân đói khổ,
Vì sao dân tán loạn,chia ly...
Và vì sao dân mình lại tự cầm súng bắn nhau?
Sự thật là câu trả lời cho mọi câu hỏi của con.
Bài học thứ ba cha sẽ dạy
Dạy cho con biết thế nào là dũng cảm
Đừng như cha bi kịch một thằng hèn.
Khi lòng tốt vùi chôn vào sợ hãi
Khi thiện lương câm lặng trước bạo tàn
Khi niềm tin gởi nhầm cho quỷ dữ
Thì khác chi trái tim của lũ cừu.
Có thể cha đã im lặng làm cừu
Vì cha sợ, cha nhỏ nhen ích kỷ
Cha sợ con đau và con phải bơ vơ...
Nhưng cha đâu biết con lại buồn đến thế
Vì có cha chỉ là một con cừu.

Có thể còn rất nhiều bài học nữa
Nhưng rồi cuộc đời sẽ dạy cho con.
Và điều này cha nhắc nhở
Không phải bài học đâu vì trong tim mỗi người ai cũng có
Nhưng hoặc quên hoặc cố lãng quên.
Hãy vứt đi tỵ hiềm đố kỵ
Hãy ném đi ghen ghét hận thù...
Đừng bao giờ quên con nhé
Cứ thương yêu thật nhiều,
Cả khi đau lòng con phải biết thứ tha.


(Sưu tầm internet)

Thứ Ba, 21 tháng 12, 2010

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ (*)

Will & Ariel Durant
(Nguyễn Hiến Lê dịch)

Sự xung đột giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là một trong những yếu tố của cái nhịp điệu tập trung và phân tán tài sản chúng tôi đã nói trong chương trên. Hiển nhiên là giới tư bản đã đóng vai trò kiến tạo trong lịch sử; họ đã gom góp số tiền dành dụm của nhiều người để gây nên một số vốn sinh lợi, bằng cách hứa chia lòi cho mỗi người; họ đã xuất vốn để cơ giới hóa kỹ nghệ, canh nông, hợp lý hóa cách thức phân phối sản vật; hậu quả của tất cả hoạt động đó là cả cái khối trao đổi sản phẩm giữa người sản xuất và người tiêu thụ tăng vọt lên, lớn lao chưa từng thấy. Chế độ tư bản đã lợi dụng nguyên tắc kinh tế tự do, chủ trương rằng các nhà kinh doanh mà không bị những thuế chuyên chở, những luật lệ hành chính đè bẹp thì có thể tặng cho dân chúng nhiều thực phẩm hơn, nhiều tiện nghi trong nhà hơn, nhiều thì giờ nhàn hạ hơn các xí nghiệp do các chính trị gia dung công chức để điều khiển, hòng mong thoát được sự chi phối của cung cầu. Trong sự tự do kinh doanh, tinh thần ganh đua và long tham tư hữu thúc đẩy người ta làm việc bằng tay chân và bằng trí óc, gần hết các thiên tư về kinh tế, không sớm thì muộn cũng sẽ được dung và được thưởng công, vì có sự di động các người tài giỏi, có sự đào thải tự nhiên các tài năng, vả lại khi mà các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp tùy theo nhu cầu của dân chúng, chứ không tùy theo một sắc lệnh của chính phủ thì sự diễn tiến của kinh tế mới có thể nói là dân chủ từ căn bản được.
            Tất cả những lý lẽ kể trên chứa một phần chân lý, nhưng không giảng được tại sao trong lịch sử lại có nhiều cuộc phản kháng, nổi loạn để chống những sự quá lạm của sự áp chế trong kỹ nghệ, sự gian trá về giá cả, thuật trốn tránh luật pháp của bọn kinh doanh và tinh thần vô trách nhiệm của bọn phú gia. Những quá lạm đó chắc đã xẩy ra từ thời thượng cổ rất xa xăm vì chúng ta thấy những thí nghiệm chế độ xã hội xuất hiện trong mấy chục quốc gia và mấy chục thế kỷ. Ở Sumer (1) vào khoảng 2.100 năm trước T.L.
Kinh tế được quốc gia tổ chức, phần lớn các đất cày cấy đều thuộc về hoàng gia, nông dân gặt hái xong chở lúa lại kho lẫm của hoàng gia và được chia cho một phần. Để quản trị kinh tế thuộc về quốc quyền đó, người ta đã tạo một tổ chức quan lại rất nhiều đẳng cấp, nhiệm vụ là ghi tất cả những vật đem vô kho và những vật phát từ kho ra. Người sau đã tìm lại được ở Ur, kinh đô Sumer, ở Lagash và Umma cả chục ngàn tấm bằng đất sét ghi những xuất nhập đó… Ngoại thương cũng vậy, do hành chính trung ương điều khiển (2).
Babylone bộ luật Hammuorabi (3) (khoảng 1750 trước T.L) quy định số lượng của các người chăn cừu, của các thợ thủ công và cả số tiền mà các y sỹ được lãnh mỗi lần mổ xẻ.
            Ở Ai Cập dưới các triều đại Ptolémée (323-30 trước T.L). Quốc gia làm chủ đất đai và điều khiển canh nông, chính quyền cho biết người dân nào phải cấy khu ruộng nào, gieo thứ hạt giống nào, tới khi gặt, các thư ký của chính quyền lại xem xét, ghi vào sổ, thóc lúa được sàng sảy trên các sân đạp lúa của hoàng gia, rồi do nông dân đứng nối nhau thành hang chuyền tay nhau đưa vô kho lẫm của nhà vua. Mỏ, quặng cũng thuộc về chính quyền. Chính quyền quốc hữu hóa sự sản xuất và bán dầu, muối, sợi, vải, giấy làm bằng vỏ cây papyrus. Tất cả thương mại đều do quốc gia kiểm soát, quy định, ngay cả một phần lớn sự bán lẻ cũng ở trong tay các nhân viên bán lại sản phẩm của nhà nước. Ngân hàng cũng vậy, thuộc về độc quyền của chính phủ, nhưng chính phủ có thể giao cho các hội tư nhân làm đại lý. Có nhiều thứ thuế, như thuế than, thuế kỹ nghệ, thuế đánh vào sản phẩm, thuế buôn bán, thuế xử án, thuế dung các tài liệu hợp pháp. Muốn lưu lại vết tích của tất cả các giao dịch, lợi tức có thể đánh thuế được, chính quyền phải dùng một đạo quân thư ký, một hệ thốn kiểm tra người và tài sản rất phức tạo. Nhờ  có chế độ đó, Ai Cập dưới các triều đại Ptolémée thành quốc gia giàu nhất đương thời, thực hiện được những công tác lớn lao, cải thiện canh nông và dùng một phần lớn số lời để xây thành những kiến trúc lộng lẫy trong khắp nước, xuất tiền cho các hoạt động văn hóa. Vào khoảng năm 290 trước T.L., họ xây cất bảo tang viện và thư viện nổi danh ở AlexandrieSeptante). Nhưng chẳng bao lâu các vua Ai Cập gây những chiến tranh tốn kém tai hại, đam mê rượu chè, săn bắn, phó thác các việc kinh tế và cai trị cho một bọn cướp ngày, chúng tha hồ vơ vét của bần dân tới sạch sành sanh. Từ triều vua trước đến triều vua sau, sự lạm thu cứ tăng lên, mà các cuộc đình công cũng mỗi ngày một nhiều, một dữ dội. Tại kinh đô Alexandrie, người ta phát tiền, tổ chức các cuộc diễn văn nghệ để vỗ về bọn dân đen, nhưng dân bị vô số bọn công an, cảnh sát coi chừng kỹ, không được dự vào việc nước và rốt cuộc thành một khối bạo động chống chính quyền. Canh nông và kỹ nghệ không thịnh nữa vì dân không làm việc, luân lý suy đồi, và tới khi Octave qua tròng cái ách La Mã vào cổ dân chúng Ai Cập (30 trước T.L), lúc đó trật tự mới được tái lập.
Dưới thời hoàng đế Dioclétien, La Mã cũng đã theo một chế độ xã hội. Ở trong nước thì dân chúng nổi loạn vì mỗi ngày một nghèo thêm, ở ngoài thì các rỡ lăm le xâm chiếm, hoàng đế Dioclétien ở giữa hai nguy cơ đó, ban bố năm 301 sau T.L, một sắc lệnh gọi là Edictum de pretties cấm các nhà buôn có độc quyền không dược rút hang về để tăng giá, quy định giá tối cao cho mỗi món hang và tiền công tối cao cho mỗi công việc quan trọng. Ông phát động nhiều công tác xây cất lớn lao để cho bọn thất nghệp có việc làm, phát chuẩn thức ăn cho người nghèo, hoặc bán rẻ cho họ. Chính phủ lúc đó đã làm chủ hầu hết các mỏ (kim, thuộc, đá) và các kho muối; từ nay Dioclétien kiểm soát kỹ lượng hầu hết các kỹ nghệ và công nghệ lớn. Paul Louis trong cuốn Le travail dans le monde romain (Sự lao động trong thế giới La Mã) bảo: “Trong hết thảy các thành thị lớn, quốc gia thành một cố chủ (4) rất mạnh… mạnh hơn các nhà kinh doanh tư, mà hạng này còn bị đánh thuế nặng”. dĩ nhiên, các nhà kinh doanh tiên đoán thế nào quốc gia cũng bị phá sản; Dioclétien đáp rằng các rợ đương dòm ngó ở cửa ngõ Đế quốc thì phải tạm thời từ bỏ tự do cá nhân đi, cho tới khi tự do quốc gia được vững vàng đã. Chế độ xã hội của Dioclétien là một chính sách kinh tế chiến tranh chỉ có thể áp dụng được khi dân chúng sợ bị ngoại xâm. Bao giờ cũng vậy, nỗi nguy bị xâm lăng càng lớn thì sự tự do trong nước càng giảm đi.
Việc kiểm soát kinh tế tỉ mỉ chỉ tỏ ra quá nặng nề đối với tổ chức hành chính vốn đã quá lớn lao, tốn kém, và tham nhũng của Dioclétien. Để duy trì các cơ quan hành chính (quân đội, tòa án, công tác, phát chẩn), phải tăng thuế lên tới nỗi dân La Mã không muốn làm việc, không muốn kiếm tiền nữa; kinh tế băng hoại vì một luật sư tìm mọi cách bênh vực than chủ để họ khỏi phải đóng thuế, một bên các nhà lạp pháp nghĩ ra các đạo luật ngăn chặn mưu mô trốn thuế đó. Hàng ngàn người La Mã trốn các nhân viên thu thuế, vượt biên giới, qua ẩn náu tại các xứ thuộc về các rợ. Để chấm dứt tình trạng ấy và cho nhân viên kiểm thuế làm việc được dễ dàng, chính phủ ra những sắc lệnh cấm nông dân không được rời ruộng đất, thợ thủ công không được rời cửa hàng nếu chưa đóng đủ thuế. Những sắc lệnh ấy cùng với vài sắc lệnh khác nữa mở đầu cho chế độ nông nô ở thời Trung cổ.
Trung Hoa cũng đã có nhiều lần thử áp dụng chế độ xã hội. Tư Mã Thiên (sinh khoảng 145 trước T.L) bảo rằng “vua Hán Vũ Đế (giữ ngôi từ 140 đến 87 trước T.L) muốn ngăn tư nhân chiếm tài nguyên của núi, biển mà làm giàu… và muốn bắt dân chúng phải phục tùng triều đình”, ra lệnh quốc hữu hóa tài nguyên của đất đai, sự chuyên chở và thương mại, đặt ra thứ thuế đánh vào lợi tức, phát động công việc xây cất, đào kênh nối các các con sông với nhau và dẫn nước vào ruộng. Triều đình lập những kho chứa hang háo, khi giá hạ thì mua vào, khi giá cao thì bán ra; như vậy, theo Tư Mã Thiên, “những phú thương và các nhà bán lẻ không kiếm lời nhiều được… mà chính phủ bình giá hang hóa được”. Người ta bảo Trung Hoa nhờ vậy mà trở nên thịnh vượng hơn bao giờ hết trong một thời gian. Nhưng khi Vũ đế băng, vì “mệnh trời” và lòng hiểm ác của con người mà thí nghiệm đó phải bỏ. Trong nước hết lũ lụt đến hạn hán, đói kém thê thảm và giá cả tăng vọt lên. Các nhà làm ăn buôn bán cho rằng  những số thuế họ phải đóng chỉ để nuôi bọn ở không và bất tài. Kiệt lực vì vật giá leo thang, người nghèo đồng thanh kêu ca, và cũng như người giàu, đòi hồi phục chính sách kinh tế cũ; có người đòi luộc sống kẻ nào đã bày đặt ra chính sách kinh tế mới nữa. Thế là các cải cách lần lượt bị bãi bỏ, và khi dân chúng gần quên hẳn rồi thì một ông vua hiền triết lại đem ra thực hành.
Vương Mãng (làm vua từ 9 đến 23 sau T.L) là một học giả, bảo trợ văn nghệ, một đại phú gia thường giúp đỡ bạn bè và người nghèo. Khi tiếm được ngôi rồi (5), ông trọng dụng các văn nhân thi sỹ, triết gia và các người giỏi về khoa học. Ông quốc hữu hóa đất đai (6), phân phát đều cho nông dân (7), chấm dứt chế độ nô tỳ. Cũng như Vũ Đế, ông ráng kiểm soát giá cả bằng cách trữ hang hóa để bán ra hợp lúc. Ông cho các tư nhân kinh doanh vay tiền với lãi nhẹ. Những biện pháp ấy làm thiệt hại một số người cho vay nặng lãi, họ liên kết nhau để lật đổ ông đúng vào trong nước bị nạ lụt rồi hạn hán, mà lại bị ngoại nhân xâm lăng (8). Một họ giàu có, họ Lưu (9) cầm đầu cuộc nổi loạn, giết Vương Mãng và hủy bỏ chế độ của Vương. Mọi việc trở lại như cũ.
Một ngàn năm sau, Vương An Thạch làm tể tương từ 1068 đến 1085 (đời Tống) lại ráng quốc hữu hóa hoàn toàn kinh tế Trung Hoa. Ông cho rằng chỉ quốc gia mới được tổ chức thương mại, kỹ nghệ, canh nông để cho bọn giàu có khỏi bóc lột bọn nghèo. Ông cho dân vay nhẹ lời để khỏi bị bọn cho vay nặng lãi cứa cổ (10). Ông khuyến khích sự khẩn hoang, phát trước cho nông dân lúa giống và nhiều vật khác nữa, rồi những mùa gặt sau dân mới phải trả. Ông phát động nhiều công tác lớn lao để giảm bớt nạn lụt và nạn thất nghiệp. Trong mỗi quận, huyện có một nha kiểm soát giá cả và tiền công. Thương mại bị quốc hữu hóa. Người già cả, người thất nghiệp và người nghèo được trợ cấp. Ông tổ chức lại giáo dục và chế độ khoa cử để quan lại; một sử gia Trung Hoa (11) bảo “học sinh không học làm thi phú nữa mà học sử, địa, kinh tế”.
Thí nghiệm đó bị tấn công ba mặt. Trước hết là mặt thuế má quá cao: triều đình phải dùng thêm nhiều quan lại nên phải tăng thuế để trả lương cho họ. Rồi về mặt trưng binh, mỗi nhà một người (12) vì triều đình cần có một đạo quân đông để chống các rợ (13) xâm lăng. Sau cùng, bị tấn công vì nạn tham nhũng của quan lại; như mọi nước khác, Trung Hoa phải chịu sự cướp bóc của tư nhân hoặc sự cướp bóc chính thức của chính quyền.Phe thủ cựu do một người em của Vương An Thạch (14) cầm đầu, cho rằng con người vốn tham nhũng và bất tài, triều đình không thể điều khiển lấy việc kinh doanh được; chế độ kinh tế hữu hiệu nhất là chế độ “tự do kinh doanh”, không can thiệp vào công việc làm ăn của dân, như vậy hợp với bản năng tự nhiên của con người. Bọn phú gia bất bình vì phải đóng thuế quá nặng, và vì triều đình nắm độc quyền thương mại, họ tung tiền ra gây một cuộc vận động bôi nhọ tân chế độ, không cho nó thi hành được, rồi diệt nó. Cuộc vận động ấy có tổ chức rất hoàn hảo, luôn luôn gây áp lực với nhà vua. Khi xảy ra những nạn hạn hán và lũ lụt, tiếp theo là sao chổi xuất hiện làm cho mọi người hoảng sợ, thiên tử (15) đành phải bãi chức Vương An Thạch, hủy bỏ các đạo dụ và kêu cựu đảng trở lại cầm quyền.
Cho tới ngày nay, chế độ xã hội tồn tại lâu nhất là chế độ do các vua chúa dân tộc Incas thành lập ở thế kỷ XII, không rõ từ năm nào, tại miền ngày nay chúng ta gọi là Pérou. Các vua chúa Incas tin rằng Thần Mặt trời trao quyền cho họ để trị dân; họ tổ chức và điều khiển hoàn toàn nông nghiệp, tiểu công nghệ và thương mại. Chính quyền làm kế toán chính xác về nguyên liệu, dân chúng và lợi tức; xây cất những đường xá rất hoàn hảo, dùng một hạng phu trạm chuyên môn mà tạo được một hệ thống giao thông cần thiết cho một chế độ cai trị tinh mật như vậy trong toàn cõi. Người dân nào cũng là một công chức của quốc gia và có vẻ thỏa mãn về chế độ đó vì được quốc gia bảo đảm cho an toàn, khỏi lo đói rét. Chế độ tồn tại mãi tới khi Pizarro (người Y Pha Nho) xâm chiếm Pérou năm 1933(16).
Pérou ở bờ biển phía tây, thì ở bờ biển phía đông Nam Mỹ, trên bờ sông Uruguay, vào khoảng 1620-1750, một trăm người thầy tu dòng Tên (Jésuite) cũng thành lập một cộng đồng theo chủ nghĩa xã hội gồm 200.000 người da đỏ. Những nhà cai trị tu hành ấy tổ chức tất cả đời sống kinh tế: nông nghiệp, kỹ nghệ, thương mại. Họ cho phép mỗi thiếu niên được lựa chọn một nghề trong số những nghề họ dạy, nhưng bắt buộc người nào khỏe mạnh cũng phải làm việc tám giờ một ngày. Họ tổ chức các trò tiêu khiển (thể thao, vũ hội), điều khiển những đội hợp xướng gồm ngàn người hát, thành lập cả những nhạc đội tấn nhạc Âu châu. Họ vừa là nhà giáo, y sỹ, vừa là thẩm phán; hình luật của họ không có tử hình. Về mọi phương diện, thổ dân đều thỏa mãn, cho nên tỏ ra rất nhu thuận. Khi cộng đồng bị tấn công, thổ dân chống cự rất hăng và rất giỏi, khiến kẻ xâm lăng (Y Pha Nho (**)) phải ngạc nhiên. Năm 1750, Bồ Đào Nha nhường cho Y Pha Nho những đất đai gồm bảy khu thực dân Y Pha Nho ở Mỹ muốn chiếm liền; chính quyền Bồ Đào Nha do Pombal (1699-1782) làm tể tướng- ông này xung đột với dòng Tên thời đó- ra lệnh cho các thầy tu và thổ dân phải rời ngay những đồn điền ấy; thổ dân chống cự lại không nổi và thí nghiệm đó chấm dứt.
Ở Đức, sau thời cải cách tôn giáo, xảy ra một cuộc cách mạng xã hội, và nhiều thủ lĩnh phong trào tung ra những khẩu hiệu cộng sản phỏng theo Thánh kinh. Một nhà truyền giáo tên là Thomas Munzer (?-1525) hô hào dân chúng lật đổ các vua chúa, giai cấp tăng lữ và giai cấp tư bản mà thành lập một “xã hội hoàn hảo hơn”, trong đó mọi tài sản là của chung (17). Ông ta tuyển một đạo quân nông dân, thuyết cho họ nghe về chế độ cộng sản thời các Sứ đồ Ki tô, làm lòng họ bừng bừng lên rồi đưa họ ra mặt trận, và Munzer bị chặt đầu (1525), Hans Hut thích tư tương của Munzer, tổ chức ở Austerlitz một cộng đồng “anabaptiste” (18) theo chủ trương cộng sản trong gần một thế kỷ (từ 1530 đến 1622). Jean de Leyde cầm đầu một nhóm anabaptiste, cầm quyền ở Munster, kinh đô xứ Westphalie, thi hành một chế độ cộng sản trong mười bốn tháng (1534-1535).
Thế kỷ XVII, một nhóm “san bằng” (19) trong đạo quân của Cromwell (20) yêu cầu Cromwell nhân đó thành lập ở Anh một xã hội lý tưởng thuộc loại cộng sản.
Phong trào xã hội dịu xuống thời Phục hưng rồi lại tái hiện khi cuộc cách mạng kỹ nghệ làm cho dân chúng thấy sự tham lam tàn nhẫn của giai cấp tư bản đương lên: đàn bà và trẻ con phải làm việc mười mấy giờ một ngày, tiền công quá thấp, xưởng và những túp lều lụp xụp của họ là những ổ bệnh tật. Karl Marx và Friedrich Engels thảo cho phong trào một hiến chương, tức bản Tuyên ngôn của đảng Cộng sản năm 1847, và một bộ Thánh kinh, tức bộ Tư bản luận (1867-1895).
Hai nhà đó nghĩ rằng chế độ xã hội sẽ thực hiện trước hết ở Anh vì nước đó là một nước kỹ nghệ phát triển nhất; tổ chức kỹ nghệ ở đó tập trung hóa. Họ không được sống thêm ít chục năm để ngạc nhiên thấy rằng chế độ cộng sản bắt đầu ở Nga chứ không phải ở Anh.
Tại sao chế độ xã hội chủ nghĩa hiện đại lại bắt đầu chính ở cái xứ mà chế độ tư bản gần như chưa có ấy, trong cái xứ thiếu hẳn những nghiệp đoàn mạnh mẽ bắc cầu cho hai chế độ tư bản và xã hội ấy? Đành rằng nông dân Nga thời ấy đã chịu mấy thế kỷ khốn khổ, và đã có mấy thế hệ trí thức Nga nổi loạn để mở đường, nhưng nông dân Nga được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ từ năm 1861, còn các nhà trí thức thì có khuynh hướng vô chính phủ- trái hẳn với chế độ Quốc quyền. Sở dĩ cách mạng 1917 thành công có lẽ là vì chính quyền Nga hoàng đã mất tín nhiệm vì chiến bại mà lại cai trị dở; kinh tế Nga chìm đắm trong cảnh hỗn loạn, nông dân ở mặt trận đem theo khí giới về, mà chính quyền Đức lại cho Lénine và Trotsky mọi phương tiện cần thiết để trốn ra ngoại quốc, không bị ngăn cản, bắt bớ gì cả. Cuộc cách mạng đã có tính cách cộng sản vì tân quốc gia phải đương đầu với nội loạn và ngoại xâm. Dân tộc Nga đã phản ứng như mọi dân tộc khác trong tình trạng bị bao vây, nghĩa là tạm từ bỏ tự do cá nhân trong khi chờ đợi trật tự và an toàn được tái lập. Ở đó cũng vậy, chế độ cộng sản là một chế độ kinh tế thời chiến. nó tồn tại được có lẽ nhờ dân chúng sợ nguy cơ chiến tranh, nỗi sợ đó hiện nay vẫn còn ở Nga; nhưng chỉ sau một thế hệ hòa bình là chắc chắn chế độ cộng sản sẽ bị bản tính con người làm cho suy sụp lần lần (***).
Hiện nay các người Nga theo chủ nghĩa xã hội lại đánh vào lòng ham tư lợi của con người để chế độ sản xuất được nhiều hơn, và cũng vì dân chúng đòi hỏi nhiều tự do thể chất và tinh thần hơn. Ngược lại, chế độ tư bản lại hạn chế tư sản cá nhân: luật pháp đã có một nửa tính cách chế độ xã hội rồi, mà tài nguyên thì do “Quốc gia phù trì” (21) phân phối lại rồi. Marx nhận là môn đệ của Hégel mà đã phản Hégel; theo ông ta, biện chứng pháp (22) của Hégel có nghĩa là chế độ tư bản và chế độ xã hội tranh đấu nhau thì rốt cuộc chế độ xã hội sẽ toàn thắng; nhưng nếu chúng ta áp dụng thuyết Hégel (chính, phản, hợp) như vầy: cuộc cách mạng kỹ nghệ là chính đề, sự xung đột giữa chế độ tư bản và chế độ cộng sản là phản đề, thì rốt cuộc phải đưa tới sự tổng hợp của chế độ tư bản và chế độ xã hội; vả lại hiện nay rõ rang là Tây phương đang tiến tới sự hòa giải giữa hai chế độ trái nhau ấy. Từ năm này qua năm khác, các chính quyền Tây phương càng ngày càng xen vào đời sống kinh tế của dân, và chức vụ giao phó cho khu vực kinh doanh của tư nhân bị gặm nhấm thêm mỗi ngày một chút. Trong số các yếu tố cổ truyền, chế độ tư bản còn giữ lại nguyên tắc tư sản của nó là một kích thích tố, nguyên tắc tự do kinh doanh và nguyên tắc ganh đua; nó lại tặng chúng ta nhiều sản phẩm cùng loại mà khác nhau để ta lựa chọn. Đồng thơi nhờ chính sách thuế khóa đánh nặng vào giai cấp giàu có, chính quyền có đủ tiền giúp cho một dân số đã biết tự hạn chế sinh sản được hưởng nhiều dịch vụ hơn bao giờ hết về giáo dục, y tế, tiêu khiển. Vì sợ chế độ tư bản mà chế độ xã hội phải trả cho dân chúng nột chút tự do; vì sợ chế độ xã gội mà chế độ tư bản đã bắt buộc phải giảm bớt sự bất bình đẳng giữa các giai cấp. Phương Đông (cộng sản) đã giống phương Tây (tư bản), phương Tây đã giống phương Đông, và chẳng bao lâu nữa hai chế độ sẽ gặp nhau ở giữa đường.

Chú thích:
(*) Nhận thấy đây là một góc nhìn về CNXH rất thú vị, nên góp công đánh máy lại và tải lên cho tất cả những ai quan tâm cùng tham khảo. Đây là phần trích toàn bộ nguyên văn chương IX trong cuốn Bài học của Lịch sử do Nguyễn Hiến Lê dịch (Nxb Tổng hợp TP HCM- 2006) dựa trên nguyên tác The Lessons of History – Simon and Shuster N.Y. 1968 của hai tác giả Will & Ariel Durant. (Chú thích của Lê Dân).
(**) Y Pha Nho: Tây Ban Nha (chú thích của Lê Dân).
(***) Dự đoán này của Will & Ariel Durant đã hoàn toàn trở thành sự thật vào những năm 90 của Thế kỷ XX. (Chú thích của Lê Dân).
(1)   Miền nam xứ Irak ngày nay, trên hạ lưu hai con sông Tigre và Euphrate.
(2)   Trích trong bộ Encyclopaedia Britannica cuốn II, 962 b (chú thích của Durant).
(3)   Vua Babylone đã chiếm xứ Sumer, Babylone ở trê bờ sông Euphrate.
(4)   Chủ mướn người làm công.
(5)   Vương Mãng làm chức tể hành (như tể tướng), giết vua Bình Đế nhà Hán, lập Nhũ Tử Anh (nhũ tử nghĩa là em bé) mới hai tuổi làm vua, rồi phế anh, tự xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Tân, giữ ngôi được 14 năm (9-23 sau T.L).
(6)   Gọi là vương điền: ruộng của vua.
(7)   Tức chính sách tỉnh điền.
(8)   Tức người Hung Nô, Man Di, các nước Cao Ly và Tây Vực.
(9)   Chính ra là các tôn thất nhà Hán; hai an hem Lưu Diễn và Lưu Tú khởi binh, tôn Lưu Huyền (cháu sáu đời của vua Cảnh Đế) làm Hán đế.
(10)           Tức chính sách thanh niên: triều đình cho dân vay tiền khi lúa còn xanh, đến ngày mùa thì thu lại với hai phân lời.
(11)           Durant không chỉ rõ là ai, chỉ nói là theo cuốn Phát minh nghề in ở Trung Hoa của Carter.
(12)           Durant muốn nói chính sách bảo giáp: dùng dân thay lính để bảo vệ địa phương.
(13)           Tức người Liêu và Tây Hạ.
(14)           Tức “cựu đảng” (tân đảng là đảng của Vương). Hai người em của Vương An Thạch là Vương An Lễ và Vương An Quốc. Cầm đầu cựu đảng là Tư Mã Quang, Âu Dương Tu (coi cuốn Tô Đông Pha của Nguyễn Hiến Lê – Cảo Thơm 1971).
(15)           Vua Tống Thần Tôn, năm 1076. Sau đó vua Triết Tôn lại dùng tân pháp một thời gian nữa (1093-1101) đến đời Huy Tôn (1101) mới bỏ hẳn.
(16)           Theo Loui Baudin trong cuốn Đời sống hang ngày ở thời các Incas cuối cùng (Hachette 1955) thì hồi đó, đầu thế kỷ XVI, xứ Incas gồm khoảng 15 triệu dân, và người Y Pha Nho rất ngạc nhiên về sự tổ chức rất hợp lý của chế độ Quốc quyền (Etatisme), quốc sản (capital d’Etat) của họ: công chức phân phát ruộng đất, hạt giống, nông cụ hoặc các nguyên liệu cho mỗi người dân để họ trồng trọt hoặc chế tạo các đồ dùng. Gặt hái hoặc chế tạo được bao nhiêu, họ chở tới chất trong các kho lẫm của chính phủ xây cất thành hang hai bên đường lộ lớn hoặc chung quanh các thị trấn. Những người coi kho, lẫm cũng là công chức, lo việc kế toán xuất nhập. Trong những kho lẫm ấy luôn luôn trích trữ đủ thực phẩm cho toàn quốc trong mấy năm. Theo nguyên tắc, nhà vua làm chủ tất cả những của cải ấy, muốn sử dụng ra sao tùy ý. Mỗi gia đình được phân phát cho đủ thức ăn, quần áo và đồ dùng, thuốc men khi đau ốm. Tỉnh nào bị thiên tai thì được tỉnh khác viện trợ; miền nào có những công tác lớn lao thì người miền khác lại giúp. Tóm lại kinh tế trong nước hoàn toàn kế hoạch hóa. Được vậy là nhờ một tổ chức hoàn hảo, những cơ quan thống kê đắc lực, những đường xá rất tốt (tốt hơn La Mã thời cổ), và những cách thức truyền tin (bằng phu trạm) rất mau. Trong nước không có người nghèo người giàu, xã hội được quân bình. Nhưng, như mọi chế độ khác, chế độ đó tuy hoàn toàn hợp lý, cũng có nhiều điểm bất tiện; kỷ luật nghiêm quá, nhà vua dễ chuyên hoành; - phí tổn rất lớn vì phải nuôi rất nhiều công chức; - sản phẩm hư hao, lâu lâu phải đổ đi; - sau cùng, những kho lẫm đó, cách phân phối công việc và sản phẩm đó là những trở ngại lớn lao khi bị người Y Pha Nho xâm lăng. Một điều lạ lung là dân tộc ấy không có chữ viết, chỉ dùng lối “kết thằng” (thắt nút) để ghi nhớ mà tổ chức được một nền kinh tế kế hoạch hóa, những cơ quan kế toán, thống kê tinh vi như vậy.
(17)           Trong cuốn Cộng sản ở Trung Âu thời Cải cách tôn giáo của Kautsky (chú thích của Durant).
(18)           Một giáo phái Ki-tô chủ trương rằng tín đồ phải làm tẩy lễ hai lần mới đủ.
(19)           Leveller: trỏ hạng người chủ trương làm cách mạng để “san bằng” xã hội, nghĩa là phá bỏ hết các giai cấp, mọi người bình đẳng như nhau.
(20)           Cromwell (1599-1653) là một nhà cách mạng Anh, giỏi cầm quân, thắng đảng bảo hoàng Anh, thanh trừng quốc hội, thành lập một tòa án xử tử vua Charles I, lên cầm quyền nhưng không xưng vương mà chỉ xưng là nhiếp chính đại thần, khéo trị dân.
(21)           Nghĩa là Quốc gia che chở cho dân, nhưng bắt dân phải phục tùng, theo lệnh của mình như theo ý trời.
(22)           Dialectique: chúng ta quen dịch như vậy, nhưng dịch là luận biện pháp hoặc dịch hóa pháp thì có phần đúng hơn.
(Phần chú thích theo số thứ tự là chú thích của dịch giả Nguyễn Hiến Lê).

Thứ Sáu, 3 tháng 12, 2010

Con diều hâu hồ đồ

Thưa các ông quan đảng, quan nhà nước đầy tôn kính và đáng sợ đang ngự trị trên bậc cửu trùng đài.
Xưa ông Trạng từng nói “miệng nhà quan có gang có thép” nên vì thế quan nói gì mà chẳng đúng, chẳng hay, còn phận “đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm” như lê dân bá tánh chúng tôi đây có gào kêu thảm thiết rách cổ họng cũng chẳng bõ bèn gì. Bởi vậy dù có oan ức, có căm phận việc các ông làm đến đâu chăng nữa cũng chỉ mong được an phận làm đời dân đen, tôi tớ qua ngày đọan tháng để làm ăn. Nhưng vì thấy sự thể mỗi ngày mỗi quá, “con giun xéo lắm cũng quằn” đạo lý này tôi tin là các ông hiểu, có đầu mà không nghĩ, lâu ắt hóa ngu, có mắt mà không nhìn, lâu ắt hóa mù, im lặng riết rồi sẽ thành câm. Vì không muốn làm một kẻ phế nhân ngu-câm-điếc, xin được lấy hết dũng khí của một lương dân để ngửa mặt, ngẩng cao đầu mà thưa với các ông rằng: Đất nước mà chúng tôi và các ông đang sống đây được làm nên từ xương, từ máu, từ mồ hôi và nước mắt của tầng tầng lớp lớp thế hệ ông cha- những con dân nước Việt oai hùng. Đất nước này không phải là của riêng của các ông, hà cớ chi các ông lại rước hùm beo về giày xéo? Sau bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ, tàn khốc, Đất nước này chưa đủ tả tơi hay sao?
Dân gian chúng tôi tính hay chuyện, kể chuyện, nghe chuyện cho vơi đi mệt nhọc sau những ngày lao động vất vả. Các ông chẳng phải lao động vất vả gì, bởi thế không biết các ông có nghe được tâm tư nào từ đàn con dân mà các ông đang chăn dắt đó không? Có câu chuyện thế này: “Có một con diều hâu mẹ đi tìm thức ăn cho con, nhưng vì sức lực, kỹ năng và tầm nhìn có hạn nên mặc dù đã bay cả ngày vẫn không tìm được gì. Thế là nó đành chộp ngay con mèo hoang mà nó vừa nhìn thấy mang về vứt vào tổ rồi tiếp tục bay đi để kiếm thức ăn cho ngày hôm sau. Sau khi diều hâu mẹ bay đi, con mèo hoang kia đã chén sạch lũ diều hâu con. Diều hâu mẹ trở về, phát hiện con mình bị mèo ăn thịt thì đau xót vô cùng. Thấy vậy mèo hoang mỉa mai: “làm gì mà đau xót thế, chẳng phải chính mụ đã mời tôi về làm khách đó sao?””
Thưa các ông quan đảng, quan nhà nước đầy tôn kính, nếu các ông có tâm, yêu nước thương dân thực sự nhưng không có đủ tầm (và chẳng biết vì lý do gì đó mà các ông được đặt, hay bị đặt ngồi vào ghế quan), không chóng thì chày các ông sẽ trở thành con diều hâu mẹ hồ đồ trong câu chuyện vừa kể trên mà thôi.
Lẽ đời “quan nhất thời, dân vạn đại”, cái đạo “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” chắc các ông thuộc lòng, mong các ông hãy mở rộng đôi tai mà nghe dân nói, hãy mở rộng đôi mắt mà nhìn dân sống, vận động đôi chân nhiều hơn một chút để đến gần với dân. Chứ nếu các ông nghe báo cáo láo nhiều quá màng nhĩ ắt bị thủng, xem thành tích láo nhiều quá mắt ắt bị mù và ngồi họp nhiều quá thì rồi cũng ra bại liệt cả.
Điều cần nói phận lê dân tôi đây đã nói, chỉ có điều hơi bóng gió. Vì xổ toẹt ra các ông lại vu cho tôi cái tội phản động thì khổ, vô phúc. Tôi ở tù cũng chẳng sao, chỉ thương đàn con nheo nhóc bơ vơ, hóa ra tôi lại thành thằng cha hồ đồ, mà tôi lại chẳng hề muốn thế. Vả lại tôi tin các ông  không đến nỗi dốt nát, chắc có đủ thông minh để hiểu. Những gì không hợp với lòng dân, có hại cho nước cúi mong các ông khẳng khái mà dừng lại cho.
Xưa nay việc cõng rắn cắn gà, rước hùm beo về giày xéo mồ mả tổ tông tất thảy đều trở thành tội nhân. Nếu các ông không dừng lại những cái đại dự án điên rồ và vô duyên của các ông, thì cũng đành cúi mong các ông thương tình lấy tiền thuế mà nhân dân chúng tôi cật lực đóng góp bấy lâu để đặt mua tám mươi sáu triệu cỗ quan tài cho già trẻ lớn bé nhân dân Việt Nam một người một cỗ. Đặt mua ngay bây giờ đi may còn kịp, chứ chết mà chẳng được chôn cất thì coi chừng thê thảm và xót xa lắm. Còn riêng gia đình các ông thì miễn, vì dù ít dù nhiều các ông đều có công đối với ơn trên, mẫu quốc “nước lạ”, nên các ông sẽ được mẫu quốc cấp cho mỗi người một bộ quan tài bọc nhung y trước khi chết, kèm tấm huy chương “dũng sỹ diệt dân”, “anh hùng phản quốc” cùng với lời ai điếu “Những Kẻ Bán Nước Hèn Mạt- Tội Nhân  Thiên Cổ”. Mà nếu thực tình các ông cố tình vùi con đỏ, đánh lận con đen, bán nước cầu vinh thì cũng không nên bán Đất nước này với cái giá rẻ bèo đến như thế, ráng mặc cả thêm chút nữa để kẻ mua khỏi coi thường cái mà các ông đem bán?
Trước họa diệt vong cận kề, có đôi lời ruột gan, biết là phạm thượng nhưng cúi mong các ông quan tôn kính rộng lượng bỏ qua mà nghĩ đến việc dân việc nước, đừng biến mình thành con diều hâu hồ đồ mang thảm họa về cho Dân tộc, Đất nước đã có quá nhiều đau thương này.
 (Lê Dân)

Thứ Tư, 17 tháng 11, 2010

Trăn trở của LÊ DÂN

         “Chú Dân ơi, nước mình sắp mất rồi phải không chú?” Tôi chợt giật mình trước câu hỏi của thằng cu cháu đang học lớp sáu trường làng. Thoáng một chút bàng hoàng, một chút xanh mang, tôi cố lấy lại sự bình tĩnh của người chú và ôn tồn hỏi nó: “Bậy nào, ai bày cháu nói như thế hở?”
“Thì trong các bài học lịch sử mà cô giáo cháu dạy chả nói đó sao, cứ mỗi lần đất nước ta rối ren, chính sự phiền hà, vua tôi bất hòa, quan quân lộng quyền, dân tình oán thán là y như rằng ta mất nước.”
Tôi không tin đó là câu nói phát ra từ miệng thằng nhóc 12 tuổi chỉ biết ăn với nghịch. Tôi hỏi nó sao cháu biết những điều đó mà nói, nó bảo với Dân tôi rằng: “Chú đừng có tưởng bọn cháu ngồi trước máy tính là chỉ biết chơi game thôi nhé.”
Chột dạ, Dân tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì có đứa cháu thông minh sáng dạ, mừng vì tin tưởng vào một lớp thế hệ tương lai của dân tộc biết suy nghĩ đến vận mệnh Tổ tông. Lo là không biết sau này, khi lớn lên nó sẽ ra sao,  có bị người ta phát cho mấy bộ áo kẻ sọc đen và in số vì điều 88 hay 79 gì gì đó không?
Ngẫm mà đau đớn lòng, ngẫm mà thấy mình chẳng bằng một đứa trẻ con. Chúng nó dám nói ra những điều chúng nghĩ, còn mình thì chung quy cũng tại cái hèn, vì hèn, vì sợ nên chỉ biết câm như hến nhìn đời trêu ngươi.
Câu nói của đứa cháu như mũi kim chọc vào nỗi đau mà bấy lâu Dân tôi dồn nén. Thì chỉ dồn nén thôi chứ biết làm sao khi lỡ thân làm phận dân đen trong cái xã hội không biết hỏi ai, hỏi là bị bóp mồm, nói thì thành tên phản động, học đòi chính trị này kia. Trong lòng Dân tôi giờ đây cái nguy cơ mất nước mỗi lúc nó càng hiển hiện một cách thật rõ ràng. Điều mà Dân tôi lo lắng đó là đất nước chúng ta đang mắc phải âm mưu thâm độc của người Trung quốc (người Trung quốc ở đây là những kẻ bá quyền, đế quốc nước lớn- chú thích của L.D.) và chúng ta đang từng bước rơi vào bẫy của họ. “Thâm như mưu Tàu” đây là câu nói mà hồi nhỏ Dân tôi thường được nghe ông nội nói. Mưu đồ bá vương của người Trung quốc chưa bao giờ chấm dứt, kể cả ngay lúc này, chừng nào Trung Quốc vẫn có tên là Trung Quốc thì chừng đó người Trung quốc chưa hết ý tưởng bá quyền thiên hạ. Từ xa xưa, thời các vua Hùng dựng nước, trải qua mấy ngàn năm lịch sử, để có được một nước Việt Nam độc lập như hôm nay, nhân dân ta, Tổ quốc ta đã trải qua không biết “bao phen chồn ngựa đá”, kể sao cho xiết xương máu của tổ tiên, ông cha chúng ta đã đổ xuống. Âm mưu của người Trung quốc cả ngàn đời là muốn cướp nước ta, đồng hóa nhân dân ta, tiêu diệt giống nòi ta, phong hóa, tập tục của ta. Nhưng dù có âm mưu thâm độc đến đâu, lực lượng hùng hậu đến cỡ nào thì bao giờ cuối cùng chúng cũng chỉ là kẻ thất bại. Ông nội của Dân từng giải thích cho việc thất bại này như sau: “ Người Tàu có mưu thâm đến đâu, lực lượng hùng mạnh đến đâu cũng không bao giờ thắng nổi nhân dân Việt Nam, nhân dân Việt Nam cho dù không xây dựng một Vạn Lý Trường Thành bằng xương máu đồng bào mình, nhưng lại luôn luôn tồn tại một Vạn Lý Trường Thành được kết nối bởi chất liệu của sự yêu chuộng hòa bình và đoàn kết dân tộc.” Và bài học tiền nhân để lại cho chúng ta hôm nay đó là lòng yêu nước, muốn bảo vệ nước thì phải đoàn kết, đoàn kết dân tộc giúp cho chúng ta có một sức mạnh vô biên trước mọi kẻ thù xâm lược. Bài học của lịch sử là như thế, nhưng rõ ràng chúng ta đang mất cảnh giác, chúng ta đang bị mắc mưu và chia rẽ đến cao độ. Khi sự đoàn kết mất đi, nhất định chúng ta lại sẽ mất nước. Tại sao Dân tôi lại nói thế? Việc 15 tỉnh cho các công ty Trung Quốc thuê rừng đầu nguồn, và đặc biệt là vụ Bô xít  Tây Nguyên đang gây xôn xao trên cả nghị trường lẫn trong dư luận đời sống xã hội, ở đây Dân tôi không dám lạm bàn tới hiệu quả kinh tế hay ảnh hưởng tới môi trường, cái Dân tôi muốn nói là những dự án này không hợp lòng dân, đi ngược lại với lợi ích dân tộc, là tiền đề của nguy cơ mất nước. Đáng lý ra, những điều không hợp lòng dân như thế thì lãnh đạo phải mạnh dạn mà gạt phắt đi, đằng này lại cố đấm ăn xôi và làm lấy cho bằng được. Không phải những vị lãnh đạo của mình bạo gan, càng không phải lãnh đạo của mình thông minh, sáng suốt “đứng trên đỉnh cao của trí tuệ nhân loại” (đang được nuôi sống bởi gần 86 triệu người dân mà họ cho là ngu dốt và “gian” (dân gian)), mà cái chính yếu là đa số các vị lãnh đạo ấy đã bị người Trung quốc bằng thủ đoạn này hoặc thủ đoạn khác, bằng cách này hay cách khác dụ dỗ, ép buộc và mua chuộc mất rồi. Và mỗi khi đã dính vào cái bả công danh, quyền lực, lợi lộc… mà họ giăng sẵn thì chỉ biết nhắm mắt quay lưng lại với  nhân dân, với Tổ quốc mình để cúi đầu nghe theo “lệnh”  mà “ơn trên” sai bảo.

Người Trung quốc không những chia rẽ ta bằng những cái dự án quỷ ma như Dân tôi vừa kể trên, mà chúng còn phá hoại kinh tế của ta bằng nhiều cách, gây mất lòng tin của dân ta với lãnh đạo, và sau đây là một trong nhiều cách đó mà chúng sử dụng: chúng gây niềm tin trong giới lãnh đạo ta bằng mọi cách, lôi kéo họ về phía mạng lưới của chúng, và thế là chúng giành được đa số các dự án quan trọng trong việc phát triển kinh tế- an ninh xã hội của đất nước ta (Hiểm họa quốc gia: "90% gói thầu trọng điểm rơi vào tay doanh nghiệp Trung Quốc" – Nguồn: baomoi.com), và sau khi chúng đã giành được các dự án đó thì chúng làm hay không làm, làm hay phá hoại, kết quả ra sao chúng ta không thể nào lường hết. Thử hỏi như thế kinh tế chúng ta làm sao phát triển, nhân dân làm sao tin vào lãnh đạo được đây? Chúng bắt chúng ta phải phụ thuộc vào chúng, bắt chúng ta phải đi trên những cái nạng gỗ mà chúng ném cho.

Âm mưu người Trung quốc thì già, trẻ, lớn, bé, gái, trai người Việt ta đâu có lạ gì, Dân tôi có thể kể ra đây vài ba tiểu xảo mà chúng từng sử dụng: chúng mua chân trâu, bò với giá cao, khiến hàng loạt trâu, bò bị giết thịt để lấy chân đem bán, ý đồ của chúng là làm triệt tiêu sức cày cấy trong hoạt động nông nghiệp của ta, cũng với thủ đoạn đó, chúng rao mua rễ quế với giá cao, thế là biết bao cánh rừng quế của ta trở nên khô héo… Chúng đầu độc dân ta bằng những loại thực phẩm nhiễm độc, đầu độc con em ta bằng những đồ chơi nguy hiểm, thứ văn hóa nô dịch, độc hại…vân vân và vân vân…

Những điều Dân tôi nói ra cũng có thể còn nông nổi, thiển cận, nhưng đơn giản đó là suy nghĩ của những kẻ làm dân tầm thường, tôi không muốn con cháu mình sau này phải sống trong cảnh mất nước, nhà tan, làm phận tôi mọi cho ngoại bang, như thế thì khổ nhục không tả hết. Họa diệt vong đang tới gần, Dân tôi đây tha thiết kêu gọi tất cả chúng ta cần phải cảnh giác, cần phải đoàn kết một lòng, đánh tan âm mưu và thủ đoạn gây chia rẽ để dễ bề xâm lược của bè lũ bành trướng nước lớn Trung quốc.

Cũng may mà thằng cu cháu tôi nó chưa hỏi, chứ nếu nó hỏi thì Dân tôi cũng không biết trả lời sao cho nó hiểu về Hoàng Sa,  Trường Sa, bãi Tục Lãm, thác Bản Giốc,… cùng biết bao đất, rừng, biển  nữa bị mất. Đắng cay thay, chua xót thay.

Quay trở lại câu hỏi của đứa cháu, Dân tôi trả lời nó rằng: “Chừng nào dân mình còn biết đoàn kết, thì chừng đó chúng ta không bị mất nước.”

Dân tôi cúi quay mặt đi, nhưng bỗng vang lên đâu đó “chúng ta đã từng mất nước nhưng chưa bao giờ mất làng, vì chính không mất làng nên ta giành lại được nước”. Ố, nhưng mà làng còn đâu nữa, ruộng đồng thứ thì bị thu hồi để “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” sân gôn rồi sau đó bỏ hoang, tích đất đầu cơ, thứ thì để phân lô chia nền rồi chia chác cho nhau, quan to, quan nhỏ, tư bản đỏ, địa chủ đỏ…ai ai cũng dính phần, chỉ khổ Dân tôi lầm than lại cứ thế mà tứ tán phiêu dạt như thân bèo, phận cò.


Làng cũng đã mất rồi, chỉ e…